Cụm di tích chùa Thiền Quang, Quang Hoa, Pháp Hoa tọa lạc tại số 31 - 35 phố Trần Bình Trọng, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.Cuối thế kỷ XIX, khu vực cụm di tích thuộc đất thôn Liên Đường, tổng Vĩnh Xương, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức có hồ Liên Thủy chiếm phần lớn diện tích của thôn. Những năm 1928 – 1940, trong chương trình quy hoạch thành phố, khu vực này bắt đầu được mở mang, xây dựng. Trong đó, hồ Liên Thủy được ngăn đôi. Bờ Bắc hồ được lấp san bằng, bờ Đông và bờ Tây được cạp lại vuông vắn thành hồ Thiền Quang như hiện nay. Những công trình kiến trúc, trong đó, có một số ngôi chùa nằm xung quanh hồ Liên Thủy đều bị di dời, tập trung lại ở phía Tây hồ Thiền Quang. Trong số đó, có chùa Thiền Quang, Quang Hoa và Pháp Hoa.
Nổi bật trong cụm di tích là chùa Quang Hoa. Hiện nay, chưa xác định chùa được xây dựng từ năm nào. Theo tấm bia “Quang Hoa thiền tự sự tích bi ký”, niên đại Tự Đức (1866), chùa khởi đầu chỉ là một ngôi am nhỏ bằng tranh. Qua nhiều lần tu bổ, xây dựng ngày càng có quy mô lớn và khang trang. Chùa chính quay hướng nam. Quy mô của chùa khá bề thế với 7 gian tiền đường và 5 gian thượng điện, phía sau là 10 gian nhà Tổ và nhà Mẫu. Hai bên là hai dãy nhà khách. Trong chùa lưu giữ được những bức y môn, bức cốn được chạm trổ rất cầu kỳ công phu với nhiều đề tài: Tứ linh, trúc lão, hoa văn thực vật…kết hợp với nghệ thuật chạm nổi, chạm thủng có giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt, hệ thống tượng pháp ở đây khá phong phú và có mặt đầy đủ những nhân vật trong Phật điện Phật giáo Đại thừa. Nổi bật là bộ tượng Tam Thế, Di Đà Tam Tôn, Hoa Nghiêm Tam Thánh. Hệ thống bia đá hiện còn trong chùa cũng rất phong phú. Cổ nhất là tấm bia có niên đại Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), bia Minh Mệnh năm thứ 6 (1825), bia Minh Mệnh năm thứ 12 (1831) và các bia có niên đại Tự Đức năm thứ 19 (1866), bia Tự Đức năm thứ 34 (1882), bia Bảo Đại (1938)…
Bên trái chùa Quang Hoa là chùa Thiền Quang. Chùa quay về hướng Tây với quy mô kiến trúc của chùa nhỏ gồm có toà tam quan, tam bảo, bên phải là nhà khách, bên trái có bếp, nhà Mẫu, nhà nghỉ vàhai tháp mộ của các nhà sư trụ trì đã viên tịch. Giá trị chính của chùa Thiền Quang thể hiện qua hệ thống tượng tròn, nổi bật hơn cả là pho tượng Bồ Tát, Di Đà phát quang, mang phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII.
Phía sau chùa Thiền Quang là chùa Pháp Hoa là một ngôi chùa nhỏ quay ra mặt hồ Thiền Quang nhìn về phía Đông. Theo những người dân quanh đây kể lại, sau khi di chuyển, vì thiếu nguyên liệu nên 2 làng Quang Hoa và Pháp Hoa phải dựng chung một ngôi chùa và lấy tên là Quang Hoa. Năm 1951, dân làng Pháp Hoa muốn dựng chùa riêng. Chính quyền thời gian ấy đã cắt 2 dãy nhà phụ 3 gian của chùa Quang Hoa cho dân làng Pháp Hoa dựng chùa mới. Chùa có quy mô nhỏ, gồm nắp nhà kiểu “chữ nhất”, 3 gian 2 dĩ nhỏ dùng làm nơi thờ Phật. Bên mai chùa chính là một nếp nhà 2 gian kiến trúc đơn giản để thờ Mẫu.
Các chùa bảo tồn được nhiều di vật, tượng cổ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX. Với những giá trị nổi bật về lịch sử văn hoá, cụm di tích chùa Thiền Quang, Quang Hoa, Pháp Hoa đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 06/11/1989.